nội dung cuộc duy tân minh trị

Nêu nội dung và ý nghĩa cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868? Hướng dẫn giải: Nội dung : - Kinh tế : Thống nhất tiền tệ, xóa bỏ độc quyền ruộng đất của giai cấp phong kiến phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ờ nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông… Sự tương đồng Trước hết có thể thấy rằng cuộc Duy tân Mậu Tuất ở Trung Quốc (1898) với Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản (1868) có chung một điểm xuất phát đó là đều được tiến hành trong bối cảnh áp lực của chủ nghĩa phương Tây đang đè nặng lên toàn bộ khu vực Nội dung của cuộc Duy Tân Minh Trị. Tháng 1/1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng một nước phong kiến lạc hậu. Cuộc Duy tân Minh Trị được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực: chính Nội dung Luận cương Chính trị tháng 10/1930. 1.1 Nội dung Luận cương. 1.2 Ý nghĩa của Luận cương. 2. Chủ trương chuyển hướng giải phóng dân tộc 1939-1945. 3. Ý nghĩa lịch sử của Hội nghị TW Đảng lần VI. 4. ND bản chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và HĐ của chúng ta". Theo thông tin ban đầu, khoảng 17h cùng ngày, người dân phát hiện chiếc ôtô nhãn hiệu Audi, màu trắng vẫn đang nổ máy, đỗ trên cầu Nhật Tân theo hướng từ nội thành sang huyện Đông Anh (Hà Nội). Cùng thời điểm trên, người dân phát hiện một người đàn ông khoảng 35 đến 40 tuổi, mặc quần áo tối màu nằm bất động dưới chân cầu Nhật Tân. HỒ CHÍ MINH . ĐÀ NẴNG . QUẢNG NAM . HẢI DƯƠNG . KHÁNH HÒA . Các quốc gia nổi bật Lào . Thái Lan . Hàn Quốc . Triều Tiên . Trang chủ Cộng đồng . Cuộc sống Quán quân Olympia duy nhất không sang Úc du học. 01-10-2022 . 01:24 . MC mát tay nhất lịch sử Olympia Bài viết có nội dung missronriful1983. “Duy tân Minh Trị” là một chuỗi các sự kiện cải cách dẫn đến các thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị của Nhật Bản. Cuộc cách mạng Minh Trị diễn ra từ năm 1866 đến năm 1869, một thời kỳ three năm chuyển đổi thời kỳ hậu Tokugawa và bắt đầu thời kỳ Minh Trị. Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Vào giữa thế kỷ 19, chế độ phong kiến Mạc Phủ Tokugawa ở Nhật Bản sau mấy thế kỷ thống trị đã rơi vào tình trạng bế tắc, suy thoái, không thể đáp ứng được sự phát triển, và không đủ sức chống lại sự xâm nhập của các đế quốc Âu – Mĩ. Nền nông nghiệp dựa trên quan hệ phong kiến rất lạc hậu, tô thuế nặng cộng với nạn mất mùa đẩy nông dân Nhật vào cảnh đói kém, bần cùng. Trong khi nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, thì thương nghiệp lại bùng phát với lợi thế là các hải cảng lớn, nhà buôn giàu lên nhanh chóng. Đó là cơ sở cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật. Về mặt xã hội, Nhật Bản lúc bấy giờ vẫn duy trì chế độ đẳng cấp với quyền lợi nằm trong tay các đại danh và võ sĩ Samurai. Tuy nhiên vào thời kỳ này tình hình quốc nội đã yên, chiến tranh kết thúc, nên địa vị của Samurai đã không còn như trước. Một số phải chuyển sang làm ruộng, làm thợ, hay đi buôn. Trong khi đó, tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu lên nhưng không có quyền lực về chính trị, lại bị đánh thuế nặng nên tạo ra mối xung khắc giữa thương nhân và giai cấp thống trị ngày càng lớn. Nông dân Nhật thì bị áp lực của cả hai phía, giới quý tộc và thương nhân. Nền phong kiến do Thiên Hoàng đứng đầu, nhưng trong thực tế thì do Mạc Phủ Tokugawa thao túng từ đầu thế kỷ 17, đã hơn 250 năm. Phe bảo hoàng tôn quân lấy điều đó làm bất bình, nên khơi ra phong trào lật đổ Mạc Phủ, trao lại quyền bính cho triều đình Thiên hoàng. Mạc phủ Tokugawa trước cuộc Duy tân Minh Trị đã không còn đủ khả năng lãnh đạo nước Nhật Các nước tư bản phương Tây nhân lúc tình hình Nhật Bản rối ren đã gây áp lực, đòi Nhật Bản phải thông thương. Trong khi đó, Mạc phủ Tokugawa theo đuổi chính sách Toả Quốc, tuyệt đối không chấp nhận cho người phương Tây đặt chân đến Nhật. Trước sự cương quyết của Mạc phủ, chính phủ Hoa Kỳ đưa bốn chiến thuyền đến vịnh Tokyo và trao tối hậu thư, đe dọa sẽ nổ súng. Chính quyền Mạc phủ bất đắc dĩ phải ký hiệp ước buôn bán bất bình đẳng với Hoa Kỳ, mở cửa các cảng biển. Sau Hoa Kỳ, chiến thuyền của Anh, Pháp, và Đức cũng đòi Mạc phủ phải mở cửa thông thương, và ký những hiệp ước tương tự. Nhật Bản tiếp tục nhượng bộ vì không đủ thực lực để chống lại các nước châu Âu. Những hiệp ước bất bình đẳng làm cho nhật rơi vào địa vị bị phụ thuộc. Trước tình hình khủng hoảng từ các phía, Nhật Bản đứng trước hai lựa chọn. Một là giữ nguyên lề lối cổ truyền phong kiến và địa vị của mạc phủ, nhưng có nguy cơ mất nước vì bị ngoại bang đô hộ. Hai là mở cuộc canh tân toàn diện, học hỏi và tiếp thu kiến thức của phương tây và chuyển mình thành một đất nước hùng mạnh, sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Cuộc duy tân Minh Trị Việc bị buộc phải mở cửa các hải cảng và chấp nhận thuế nhập khẩu thấp cho các nước phương Tây đã khiến Nhật Bản bị chia rẽ. Phong trào đấu tranh chống Mạc phủ Tokugawa bùng nổ khắp nơi trong thập niên 60 của thế kỷ 19, với sự lãnh đạo của các đại danh Daimyo vốn trước đây bề ngoài khuất phục Mạc phủ, nay lấy cớ Mạc phủ để cho đất nước rơi vào cảnh giống như nhà Thanh lúc đó, liền nổi dậy chống lại tướng quân Shogun. Tướng quân phần vì không muốn, phần vì không thể chống lại sự nổi loạn đó, đã nhân nhượng và rốt cục giải thể Mạc phủ. Một số võ sĩ cấp tiến có đầu óc cải cách và quý tộc ở triều đình đã nhân cơ hội nắm lấy quyền lãnh đạo đất nước. Họ nêu khẩu hiệu “bài ngoại, ủng hộ thiên hoàng” nhằm khôi phục lại Đế quyền. Track thực chất họ là những người đứng đầu triều đình, vì Thiên hoàng Mutsuhito lúc ấy chỉ mới 14 tuổi. Với khẩu hiệu nói trên, và với đất đai rộng lớn của tướng quân mà họ tiếp quản, triều đình mới đã có được sự ủng hộ của các đại danh và nguồn lực tài chính để thực hiện các cải cách. Tháng 12 năm 1867, chế độ Mạc phủ Tokugawa chấm dứt. Ngày three tháng 1 năm 1868, chính quyền mới do Thiên hoàng Minh Trị bổ nhiệm được thành lập. Giai cấp tư sản chưa được tham gia chính quyền, nhưng chế độ mới tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển, nên họ ủng hộ chính quyền mới. Thời kì Minh Trị bắt đầu. Để tận dụng ưu thế trung tâm chính trị của Giang Hộ, triều đình đã đổi tên Giang Hộ thành Tokyo hay Đông Kinh nghĩa là thủ đô ở phía đông và rời đô về đó. Triều đình Minh Trị đưa ra khẩu hiệu “Phú Quốc Cường Binh”, nhằm khai thác tâm lý lo sợ Nhật Bản sẽ trở thành thuộc địa của phương Tây nếu không chịu canh tân. Trên cơ sở đó, họ đã thuyết phục được Thiên hoàng tuyên bố từ bỏ những tập tục có hại và sẵn sàng học hỏi phương Tây, người Nhật trở nên nhiệt tình với sự khai hóa văn minh. Để xóa quyền lực của các đại danh, triều đình đã thực hiện bãi bỏ hệ thống lãnh địa và danh hiệu này. Đồng thời, họ tuyên bố “tứ dân bình đẳng” nghĩa là bốn tầng lớp gồm võ sĩ, nông dân, thợ thủ công và thương nhân giờ đây không còn bị phân biệt. Điều này gây bất bình ở tầng lớp võ sĩ, tầng lớp nắm nhiều quyền lợi nhất trong xã hội phong kiến, nên triều đình Minh Trị phải vừa đàn áp, vừa xoa dịu bằng cách bồi thường bằng tiền. Khoản tiền nhận được từ triều đình, cộng với tri thức mà tầng lớp samurai được trang bị đã biến họ trở thành giai cấp tư sản. Giai cấp “võ sĩ quý tộc tư sản” chủ trương xây dựng Nhật Bản theo con đường quân sự, là nguyên nhân dẫn đến việc Nhật Bản sau này trở thành 1 “đế quốc quân phiệt”. Nhật Bản cải cách mọi mặt của đất nước Có thể bạn quan tâm Lịch sử Triều Tiên – Hàn Quốc Cải cách trong các lĩnh vực Triều đình ban bố quyền tự do buôn bán và đi lại, thiết lập chế độ tiền tệ thống nhất, xây dựng cơ sở hạ tầng, và phát triển chủ nghĩa tư bản đến tận các vùng nông thôn. Nhiều phái đoàn được cử sang phương Tây, học hỏi về cách thức quản lý hành chính và về kỹ thuật. Toà án mới kiểu phương Tây được thành lập. Nhiều cải cách quan trọng về giáo dục được thi hành, trong đó có việc thành lập các trường Đại học để đào tạo tầng lớp lãnh đạo chính quyền và kinh doanh. Nhiều chuyên gia phương Tây được mời tới Nhật Bản để phổ biến kiến thức và kỹ thuật. Về quân sự, quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây. Lục quân theo mô hình Lục quân Đức, Hải quân theo mô hình Hải quân Anh, các công xưởng và nhà máy vũ khí theo mô hình công binh Pháp, hệ thống hậu cần học hỏi từ Hoa Kỳ. Quân đội Nhật Bản áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh, tăng cường mua và sản xuất vũ khí, đạn dược. Kèm theo đó là mời các giảng viên quân sự nước ngoài về để giảng dạy, và đưa các sinh viên sĩ quan đến một số nước như Anh Pháp học tập. Về giáo dục, Nhật Bản đã đưa những thành tựu khoa học kỹ thuật vào giảng dạy, và áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc. Các môn học chuyển từ học thuộc Kinh Sử sang Khoa học, Kỹ nghệ, Thương mại. Mô hình tự trị – tự chủ Đại học được áp dụng theo hình mẫu phương Tây, tư nhân được phép mở trường. Chất lượng dạy học cũng như chương trình chịu ảnh hưởng Hoa Kỳ và Phương Tây nhiều mặt, 80% sách vở và tài liệu chuyên ngành được biên soạn theo mẫu Phương Tây. Những học sinh giỏi được cử sang du học ở nước ngoài. Nhìn chung, chế độ Nhà nước của Thiên hoàng Minh Trị ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt, dựa vào lực lượng tầng lớp võ sĩ và các lãnh chúa có tư tưởng cải cách. Tư tưởng của tầng lớp quý tộc tư sản hoá đã quyết định con đường phát triển của Nhật Bản. Đây là một cuộc cải cách duy tân mang tính chất quy luật thời đại, nhằm đưa đất nước tiến lên con đường phát triển, tạo cơ sở cho một nước Nhật giàu mạnh, thoát khỏi tình trạng bị phụ thuộc vào đế quốc phương Tây. Nước Nhật thời Minh Trị với lực lượng xã hội có tư tưởng canh tân đã làm nên kì tích một thời trong lịch sử châu Á, giữ được nền độc lập và trở thành một cường quốc tư bản trên thế giới. Nước Nhật hiện đại sau cuộc Duy tân Minh Trị Ý nghĩa của cuộc Duy tân Minh Trị Cuộc duy tân Minh Trị theo các nhà sử học là một cuộc cách mạng tư sản không triệt để, và “thời kì Minh Trị” là thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Sau năm 1868, chính quyền không ở trong tay giai cấp tư sản, mà là nền chuyên chế của Thiên hoàng. Cuộc duy tân Minh Trị cũng mở đường cho việc biến nước Nhật Bản phong kiến thành một nước có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi số phận một nước thuộc địa hay nửa thuộc địa. Cuộc cách mạng đã dẫn đến quá trình công nghiệp hóa của Nhật Bản, làm cho nền kinh tế nước này phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối của thế kỷ 19. Nó cũng khiến cho nhật trở thành một cường quốc quân sự năm 1905 sau khi đánh bại Hải quân Hoàng gia Nga, và trước đó là nhà Thanh năm 1895. Sau cuộc Duy tân Minh Trị, giai cấp “võ sĩ quý tộc tư sản” chủ trương xây dựng Nhật Bản theo con đường quân sự, đó là nguyên nhân dẫn đến việc Nhật Bản sau này trở thành 1 “đế quốc quân phiệt” Cuộc Duy Tân minh trị thành công đã giúp Nhật Bản sánh ngang với các quốc gia tiên tiến, tuy nhiên nó cũng không tránh khỏi những hạn chế. Thời kỳ tích lũy đầu tiên ở nhật gắn liền với sự bóc lột vô cùng nặng nể của chủ nghĩa tư bản. Lương công nhân chỉ đủ tiền cơm gạo trong khi thời gian làm việc rất dài, từ 12 đến 18 giờ một ngày dưới điều kiện làm việc kém. Điều đó đã dẫn đến sự đấu tranh của giai cấp công nhân dưới hình thức bãi công, bạo động, nhưng đều bị chính phủ thẳng tay đàn áp. Sự phát triển của kinh tế Nhật Bản cũng làm xuất hiện các công ty độc quyền, với những nhà tài phiệt thao túng cả kinh tế và chính trị Nhật Bản. Tầng lớp tư sản và các nhà lãnh đạo mới đều có nguồn gốc võ sĩ, vì thế nước Nhật mới mang nhiều tính chất quân phiệt. Điều này giải thích tại sao Nhật Bản có nhiều hoạt động quân sự quy mô cho đến tận Chiến tranh thế giới thứ hai.

nội dung cuộc duy tân minh trị